Ngày 20 tháng 5 năm 2025, Phân hiệu Học viện Phụ nữ Việt Nam tổ chức Hội thảo Khoa học Quốc gia với chủ đề: “Tiếp cận liên ngành trong phòng, chống tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống – Vì tương lai của trẻ em”. Hội thảo là một trong những hoạt động quan trọng nằm trong khuôn khổ Dự án 8, thuộc Chương trình Mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2030.
Hội thảo được tổ chức dưới hai hình thức song song: trực tuyến và trực tiếp, với sự tham dự của bà Nguyễn Thị Kiều Oanh, Phó Chánh Văn phòng Trung ương Hội LHPN Việt Nam; Ban giám đốc Phân hiệu Học viện Phụ nữ Việt Nam; cùng gần 100 đại biểu là lãnh đạo, cán bộ Hội LHPN của 18 tỉnh/thành phía Nam; các nhà khoa học, chuyên gia đầu ngành đến từ nhiều trường Đại học, Viện nghiên cứu trong nước; các tổ chức phi chính phủ và các cơ quan báo chí. Đặc biệt, sự hiện diện của các già làng, trưởng bản, người có uy tín trong cộng đồng, học sinh dân tộc thiểu số (DTTS) và phụ huynh đã mang đến những góc nhìn gần gũi và thực tiễn cho hội thảo. Tất cả đã cùng nhau tạo nên một không gian hội thảo cởi mở, nơi vấn đề được nhận diện thẳng thắn và giải pháp được kiến tạo bằng sự kết nối giữa lí luận, thực tiễn và hành động.
Hội thảo đã diễn ra đầy tâm huyết và tích cực, các đại biểu đã chia sẻ nhiều góc nhìn đa ngành từ pháp luật, văn hóa bản địa đến công nghệ dữ liệu lớn cùng những kinh nghiệm thực tiễn và mô hình can thiệp hiệu quả. Không dừng ở phân tích lý thuyết, các thảo luận đã mở ra những giải pháp khả thi nhằm ngăn chặn tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết – hai vấn đề đang xâm phạm nghiêm trọng đến quyền và tương lai của trẻ em gái DTTS.
Phát biểu chào mừng và trình bày đề dẫn hội thảo, bà Nguyễn Thị Thu Hương, Phó Giám đốc Học viện Phụ nữ Việt Nam, Giám đốc Phân hiệu khẳng định vai trò trung tâm của cách tiếp cận liên ngành trong việc tháo gỡ các vấn đề xã hội có tính hệ thống và bền vững. Theo bà: “Tảo hôn và hôn nhân cận huyết không chỉ là biểu hiện của thiếu hiểu biết. Đó là sản phẩm của cấu trúc xã hội, văn hóa và quan hệ quyền lực và chúng ta chỉ có thể thay đổi khi nhiều lĩnh vực cùng lên tiếng.”
Phiên 1 (buổi sáng) của Hội thảo với chủ đề “Tiếp cận liên ngành trong phòng, chống tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống – Những vấn đề lý luận” với sự chủ trì của bà Nguyễn Thị Kiều Oanh, Phó Chánh Văn phòng Trung ương Hội LHPN Việt Nam; bà Nguyễn Thị Thu Hương, Giám đốc Phân hiệu Học viện Phụ nữ Việt Nam; GS. TS Vũ Gia Hiền, Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Khoa học Công nghệ TP.HCM.
Phiên 1 mở đầu bằng không gian đối thoại học thuật, nhấn mạnh vai trò của tiếp cận liên ngành trong phân tích tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống. Các chuyên gia và đại biểu đã làm rõ rằng đây không chỉ là vấn đề pháp lý hay giáo dục, mà là những thực hành xã hội – văn hóa phức tạp, gắn với cấu trúc thân tộc, bản sắc cộng đồng và quan hệ quyền lực trong xã hội truyền thống.
Từ góc độ hành động cộng đồng, NCS.ThS Nguyễn Thị Oanh, Phó Giám đốc Phân hiệu Học viện Phụ nữ Việt Nam đã giới thiệu mô hình ABCD (phát triển cộng đồng dựa vào nội lực). Bà nhấn mạnh: khi chính cộng đồng lên tiếng, tổ chức và hành động, các giải pháp không chỉ bền vững mà còn mang tính sở hữu thực chất. Điển hình là các diễn đàn trẻ em vùng cao – nơi các em gái dám nói “không” với tảo hôn.
Tiếp nối chương trình, TS. Phạm Thanh Thôi, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn TP.HCM tập trung vào thực trạng tại Tây Nguyên, nơi hôn nhân gắn liền với danh dự thân tộc và các ràng buộc cộng đồng. Theo ông, mọi nỗ lực can thiệp từ bên ngoài nếu không xuất phát từ sự đồng thuận văn hóa đều dễ thất bại, “thay đổi cần bắt đầu từ sự thấu hiểu.”
TS.Dương Đức Minh, Viện Nghiên cứu Phát triển Kinh tế và Du lịch TP.HCM đã đem đến một góc nhìn xã hội học đương đại về hiện tượng tảo hôn và hôn nhân cận huyết trong cộng đồng người Khmer tại tỉnh Trà Vinh. Ông đề xuất một hướng tiếp cận “phản tư và đối thoại”, thay vì áp đặt chính sách từ bên ngoài. TS. Minh cho rằng việc lắng nghe thanh thiếu niên, đối thoại với già làng và tạo điều kiện để cộng đồng tự thương lượng lại các giá trị truyền thống chính là chìa khóa cho những chiến lược can thiệp dài hạn và bền vững.
Ở khía cạnh pháp lý, TS. Nguyễn Thái Cường, Trường ĐH Luật TP.HCM đề xuất những cải tiến cụ thể: hạ đồng đều độ tuổi kết hôn về 18 cho cả nam và nữ, bổ sung quy định về các mối quan hệ cận huyết chưa được luật hóa và tăng cường chế tài xử lý vi phạm. Ông khẳng định: “Luật pháp chỉ hiệu quả khi đồng hành cùng đời sống.”
Trong thảo luận chuyên đề, BS CKII. Phạm Quốc Hùng, Bệnh viện Hùng Vương mang đến lời cảnh báo từ thực tế y tế: mỗi năm, bệnh viện tiếp nhận hàng trăm ca trẻ vị thành niên mang thai, có em chỉ mới 11 tuổi. Tảo hôn không chỉ là rủi ro xã hội, mà còn là mối đe dọa trực tiếp tới sức khỏe sinh sản và quyền sống còn của trẻ em gái. Phát biểu trực tuyến, TS. Lê Ngọc Hiếu – Đại học Văn Hiến đưa ra đề xuất ứng dụng trí tuệ nhân tạo và dữ liệu để xây dựng bản đồ gene cộng đồng, công cụ hỗ trợ phát hiện sớm nguy cơ hôn nhân cận huyết. Tuy nhiên, để triển khai hiệu quả, ông nhấn mạnh: “cần có hành lang pháp lý, đào tạo nhân lực chuyên sâu và sự đồng thuận từ cộng đồng”. Và khi một học sinh trở thành tiếng nói của thế hệ, giữa những số liệu pháp lý và phân tích xã hội học, giọng nói nhỏ nhẹ của em Ka Phú, học sinh lớp 9 người DTTS đã khiến cả hội trường lặng đi: “Em từng chứng kiến bạn mình bị ép cưới, bỏ học, trầm cảm và cả tự tử nữa. Em ước mơ trở thành luật sư để bảo vệ các bạn. Em sẽ kể lại những gì được nghe hôm nay với cha mẹ, bạn bè để cùng nhau tránh xa tảo hôn”. Đó không chỉ là một lời chia sẻ, đó là minh chứng mạnh mẽ cho sức lan tỏa của hội thảo, khi tri thức chạm đến trái tim, nó không ở lại trong phòng hội nghị, mà đi vào đời sống bằng chính tiếng nói của những người trẻ.
Tảo hôn và hôn nhân cận huyết không thể được giải quyết bởi một ngành hay một góc nhìn duy nhất. Chỉ khi kết nối giữa luật pháp, cộng đồng, văn hóa và công nghệ được thiết lập, chúng ta mới có thể xây dựng những giải pháp khả thi vừa mang tính can thiệp, vừa tôn trọng bản sắc. Đồng thời, khi tri thức không chỉ dừng ở giảng đường, mà chạm tới trái tim cộng đồng sự thay đổi mới thực sự bắt đầu.
Phiên 2 (buổi chiều) với chủ đề “Các mô hình phòng, chống tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống ở vùng dân tộc thiểu số” với sự chủ trì của bà Nguyễn Thị Kiều Oanh, Phó Chánh Văn phòng Trung ương Hội LHPN Việt Nam; bà Nguyễn Thị Thu Hương, Giám đốc Phân hiệu Học viện Phụ nữ Việt Nam; PGS.TS Lê Chi Lan, Phó Hiệu trưởng, Trường Đại học Sài Gòn.
Ở phiên thảo luận này, nổi bật một chân lý rõ nét: “thay đổi bền vững chỉ có thể bắt đầu từ chính bên trong cộng đồng”. Tại đây, những mô hình can thiệp không đến từ bàn giấy, mà từ thực tiễn nơi tri thức gặp đời sống và người trong cuộc trở thành chủ thể hành động “Học từ cộng đồng – Làm cùng cộng đồng”. Bà Kim Thị Minh, Phó Chủ tịch Hội LHPN tỉnh Tây Ninh, chia sẻ hành trình đồng hành cùng cộng đồng địa phương qua các mô hình như “Phụ nữ không tảo hôn”, “Cha mẹ đồng hành” hay các lễ hội truyền thống không có hôn nhân sớm. Những sáng kiến này đơn giản, gần gũi và được thiết kế không phải để “đưa vào”, mà để “bật lên” từ chính nội lực văn hóa địa phương.
Theo bà Kim Thoa Adrơng, nhiều nhóm thanh thiếu niên DTTS đã tự tổ chức diễn đàn, thành lập câu lạc bộ kỹ năng sống, đối thoại trực tiếp với chính quyền để cùng xây dựng các cam kết phòng, chống tảo hôn. Đây không chỉ là kết quả truyền thông mà là dấu hiệu rõ rệt của sự trưởng thành xã hội từ bên trong cộng đồng.
Tuy nhiên, phiên thảo luận cũng không né tránh những thực tế gai góc. Chuyên gia Trần Huyền Nhung, công ty TNHH doanh nghiệp xã hội Tâm Nhung chia sẻ: “Tảo hôn không chỉ là con số trên báo cáo, mà là thực tế nhức nhối khi nhiều em phải nghỉ học vì khó khăn, khi rời trường, nguy cơ tảo hôn càng cao. Cần đưa giáo dục hôn nhân vào trường học và gia đình, đồng thời huy động vai trò của người có uy tín, giáo viên và đoàn thể”. Bên cạnh đó, ông Nguyễn Hồ Dzu, công ty luật Magnolia Law cũng nhấn mạnh: “Tảo hôn không phải là giá trị văn hóa cần gìn giữ, mà là hành vi vi phạm pháp luật, gây tổn hại nghiêm trọng đến quyền trẻ em. Không thể dùng văn hóa để hợp thức hóa sai phạm”. Già làng xã Đê Ar, huyện Mang Yang, tỉnh Gia Lai chia sẻ thẳng thắn: “Trước đây, con gái muốn lấy chồng phải biết dệt vải, đan gùi. Nay trẻ em tiếp cận công nghệ quá sớm, gia đình không kiểm soát được, dẫn đến tình trạng tảo hôn ngày càng đáng lo ngại”. Các đại biểu đã chỉ ra những rào cản đáng kể: thiếu nguồn lực chuyên môn tại cơ sở; định kiến giới ăn sâu trong tư duy cộng đồng và những khoảng trống lớn trong tiếp cận tài chính, pháp luật, thông tin… đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa.
Tiếp tục phiên 3 thảo luận, nhiều nhiều kiến nghị thiết thực đã được đồng thuận cao. Bà Nguyễn Thị Lan Phương, Bệnh viện Nhi đồng 2 cho biết: Tảo hôn và hôn nhân cận huyết ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe bà mẹ, trẻ em. Việc triển khai mô hình “một cửa” hỗ trợ nhóm yếu thế và gắn kết người có uy tín, văn hóa địa phương là hướng đi cần thiết để không ai bị bỏ lại phía sau. TS. LS Đặng Thị Thu Huyền, Trường ĐH Nguyễn Tất Thành nhấn mạnh: Kinh nghiệm từ cộng đồng là nguồn lực quý cho các chuyên gia. Tuy nhiên, chính sách hiện nay còn thiếu tính địa phương hóa. Hợp tác liên ngành, đặc biệt giữa ngành luật và chính quyền cơ sở, là chìa khóa nâng cao hiệu quả phòng, chống tảo hôn.
Trong nỗ lực ngăn chặn tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống, nhiều tổ chức xã hội đã chủ động tham gia bằng các chương trình hỗ trợ sức khỏe và giáo dục nhằm tác động vào gốc rễ của vấn đề. Đại diện hai sáng kiến tiêu biểu đã chia sẻ những góc nhìn thực tiễn và cam kết đồng hành cùng cộng đồng, bà Chung Thúy Linh, tổ chức Nơ Xanh cho biết: “Thiếu kiến thức sức khỏe sinh sản khiến trẻ em rơi vào vòng luẩn quẩn của tảo hôn, hôn nhân cận huyết. Nơ Xanh hướng tới các giải pháp từ gốc, với sự đồng hành của cán bộ y tế địa phương. Bà Trương Nguyễn Bảo Trân, quỹ Bông Hồng Nhỏ chia sẻ: “Giáo dục là ‘lá chắn’ giúp trẻ em dân tộc thiểu số tránh tảo hôn. Học bổng không chỉ thay đổi cuộc đời từng em mà còn lan tỏa giá trị cho cộng đồng.”
Qua đó, các giải pháp cũng lần lượt được đề xuất: nâng cao năng lực cho đội ngũ làm công tác truyền thông cơ sở theo hướng liên ngành, nhạy cảm văn hóa và thích ứng với đặc thù từng vùng miền; tích hợp giáo dục hôn nhân, giới và quyền trẻ em vào chương trình phổ thông không chỉ dừng ở tuyên truyền mà đi vào lớp học, sách giáo khoa và hoạt động ngoài giờ; xây dựng chương trình riêng cho thanh thiếu niên dân tộc thiểu số, giúp các em không chỉ “nói không với tảo hôn”, mà còn biết lựa chọn, bảo vệ và định hướng tương lai của chính mình. Khi cộng đồng được tin tưởng, khi tiếng nói của họ được lắng nghe một cách trọn vẹn, thì chính họ chứ không ai khác sẽ tái định hình những chuẩn mực văn hóa, theo cách của mình, vì một tương lai bền vững hơn.
Kết thúc một ngày làm việc hiệu quả và đầy ý nghĩa, một lần nữa thay mặt cho ban tổ chức, bà Nguyên Thị Thu Hương, Giám đốc Phân hiệu Học viện Phụ nữ Việt Nam phát biểu bế mạc với thông điệp cam kết hành động, không ai bị bỏ lại phía sau: “Hội thảo đã thu hút được hơn 20 lượt chia sẻ ý kiến của các đại biểu tham dự. Chúng ta không chỉ tạo ra tri thức, mà còn đánh thức trách nhiệm. Từ đây, các giải pháp không chỉ nằm trên giấy, mà sẽ đi vào cuộc sống sâu sát, thực chất, và gần với người dân nhất”. Thông qua các phiên thảo luận sôi nổi, hội thảo đã kết nối thành công các nhánh tri thức từ học thuật đến chính sách, từ cộng đồng đến công nghệ và đặt nền móng cho những hành động liên ngành thiết thực trong giai đoạn tiếp theo của Dự án 8. Tất cả cùng hướng tới một mục tiêu chung: bảo vệ quyền trẻ em, đặc biệt là trẻ em DTTS và kiến tạo một môi trường sống an toàn, công bằng, phát triển bền vững cho các thế hệ mai sau.
Hội thảo khép lại, nhưng một cánh cửa mới đã mở ra – nơi tri thức, cộng đồng và chính sách cùng đồng hành vì một tương lai không còn tảo hôn, không còn hôn nhân cận huyết thống. Bởi khi tri thức được lắng nghe và cộng đồng được trao quyền, mọi thay đổi đều có thể bắt rễ sâu và lan tỏa bền vững.
Xuân Quỳnh